Dự thảo án lệ số 13/2022: Về công nhận hiệu lực của hợp đồng vi phạm điều kiện về hình thức (24/05/2022) Dự thảo án lệ số 12/2022 : Về căn cứ để xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án theo thủ tục tái thẩm ( 24/05/2022 ) Vào thời Cách mạng Mỹ (1775-1783), tình trạng nô lệ đã được thể chế hóa thành một đẳng cấp chủng tộc gắn liền với tổ tiên của châu Phi. [1] Khi Hiến pháp Hoa Kỳ được phê chuẩn vào năm 1789, một số lượng tương đối nhỏ người da màu tự do nằm trong số các công Lật ngược án lệ ‘Roe kiện Wade’ – chấm dứt quyền phá thai. Sau phán quyết hôm thứ Năm rằng người Mỹ có quyền mang súng, Tòa án Tối cao đã đưa ra quyết định quan trọng có lợi cho những người bảo thủ trong ngày thứ hai liên tiếp, với tỷ lệ bỏ phiếu 6-3 để lật đổ án lệ 50 năm trước vụ ‘Roe Phán quyết thế kỷ từ Tòa án tối cao Hoa Kỳ, có tác động sâu rộng. Vào thứ Năm, ngày 23/6, Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đã ra phán quyết rằng người Mỹ có quyền mang súng ở nơi công cộng, bảo vệ Tu chính án thứ hai của Hiến pháp. Sau đó, vào thứ Sáu, ngày 24/6, Tòa án Tối Dot physical a1c guidelines 2022.Robie A. Hennigar 1,2,3, Kam To Billy Chan 4, Liam Newhook 4, and Ivan Booth 1. 1 Department of Mathematics and Statistics, Memorial University, St. John's, Newfoundland and Labrador A1C 5S7, Canada; 2 Department of Physics and Astronomy, University of Waterloo, Waterloo, Ontario N2L 3G1, Canada; 3 Department of Physics and. Guideline ADA 2022 là hướng . Án lệ còn được coi là luật do thẩm phán tạo ra judge-made law. Về bản chất, án lệ là tập hợp các nguyên tắc và học thuyết pháp lý được tìm thấy trong các quan điểm của tòa án khi giải quyết các vụ việc cụ thể. Khi giải quyết các vụ việc, chủ yếu là quyết định các vấn đề pháp lý trong quyết định, bản án sơ thẩm bị kháng cáo, các thẩm phán nhân danh tòa án phúc thẩm hoặc tòa án tối cao đưa ra quan điểm về vấn đề pháp lý này. Quan điểm của thẩm phán được thể hiện ở các lập luận pháp lý legal reasoning. Cấu trúc của lập luận pháp lý bao gồm Bước thứ nhất Các thẩm phán đánh giá chứng cứ của vụ việc. Tại cấp sơ thẩm, tòa án sơ thẩm thông thường là bồi thẩm đoàn sẽ đánh giá tính đúng sai của chứng cứ nhằm xác định đâu là sự thật khách quan. Còn tại phiên tòa phúc thẩm và giám đốc thẩm, tòa án không xác định sự thật khách quan mà chỉ phân tích những diễn biến, tình tiết xảy ra trên cơ sở hồ sơ, chứng cứ đã được xác định ở cấp sơ thẩm. Bước thứ hai Tòa án xác định qui phạm pháp luật áp dụng cho vụ việc. Các qui phạm pháp luật có thể được chứa đựng trong văn bản qui phạm pháp luật do cơ quan lập pháp liên bang, bang ban hành, cũng có thể là trong qui chế hành chính hoặc là các nguyên tắc hoặc học thuyết pháp lý được tìm thấy trong các bản án, quyết định trước đó của tòa án. Bước thứ ba Tòa án cần phải phân tích để xác định xem liệu rằng qui phạm pháp luật sẽ được áp dụng như thế nào với chứng cứ của vụ việc. Đây có lẽ là bước khó khăn nhất. Để trả lời câu hỏi này, thẩm phán sử dụng các phương pháp lập luận sau forms of legal reasoning Phương pháp tam đoạn luận deductive reasoning hoặc syllogistic reasoning Theo phương này, lập luận được chia làm ba mệnh đề mệnh đề 1, mệnh đề 2 và mệnh đề 3 kết luận. Ví dụ A đẩy B gây thương tích cho B. Để kết luận A gây thiệt hại với lỗi cố ý thì ngoài chứng minh có thiệt hại gây ra bởi A đối với B còn phải chỉ ra A cố ý gây thiệt hại. Để kết luận được vấn đề này, tòa án sẽ lập luận theo các đoạn sau Đoạn 1 Theo pháp luật, lỗi cố ý chỉ đòi hỏi người gây thiệt hại cố ý thực hiện hành vi mà không cần người gây thiệt hại phải cố ý gây ra một hậu quả cụ thể. Đoạn 2 Chứng cứ của vụ việc này cho thấy A cố ý đẩy B mặc dù có thể A không mong muốn gây thương tích cho B. Đoạn 3 kết luận A gây thiệt hại cho B với lỗi cố ý. Phương pháp lập luận tuyến tính linear reasoning Theo phương pháp này, các lập luận được tiến triển theo từng bước cho đến khi bước cuối cùng là kết luận. Ví dụ Người thuê báo cho chủ nhà biết là cầu thang chung lối đi duy nhất lên các tầng trên bị hỏng có nguy cơ sập cần phải sửa ngay, chủ nhà đến kiểm tra và quyết định không sửa vì cho rằng cầu thang vẫn còn có thể sử dụng tốt trong một thời gian nữa. Mấy hôm sau, khách của người thuê đến chơi, khi đang đi trên cầu thang chung thì cầu thang này bị sập. Hậu quả là người khách này bị thương tích. Để kết luận thương tích của người khách có mối quan hệ nhân quả với hành vi không sửa cầu thang không, tòa án sẽ theo các đoạn lập luận sau Đoạn 1 Bất kỳ người bình thường nào cũng biết rằng nếu cầu thang bị hư hỏng đến mức có thể bị sập sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của bất kỳ ai sử dụng. Đoạn 2 Chủ nhà đã được báo về tình trạng của cầu thang và được yêu cầu sửa ngay. Vì người sử dụng không có lối đi nào lên các tầng ngoài cầu thang chung, nên chủ nhà biết hoặc buộc phải biết rằng nếu cầu thang không được sửa ngay sẽ có nguy cơ bị sập và gây thiệt hại cho người sử dụng cầu thang. Đoạn 3 Như vậy, trong hoàn cảnh này, chủ nhà hoàn toàn có khả năng dự đoán được rủi ro xảy ra cho người sử dụng nếu cầu thang không được sửa chữa kịp thời. Thực tế, cầu thang đã không được sửa ngay dẫn đến thiệt hại cho sức khỏe của người khách. Đoạn 4 Trong vụ việc này, thiệt hại cho người sử dụng là một rủi ro có thể dự đoán được với xác suất xảy ra cao đến mức có thể khẳng định nó là hậu quả tất yếu hoặc mang tính bản chất của hành vi không sửa chữa cầu thang kịp thời. Đoạn 5 Giữa hành vi và thiệt hại có mối quan hệ nhân quả nếu thiệt hại là hậu quả tất yếu hoặc mang tính bản chất của hành vi. Do đó, trong tình huống này, giữa hành vi không sửa chữa cầu thang kịp thời và thương tích của người khách có mối quan hệ nhân quả. Phương pháp so sánh Phương pháp so sánh thường được sử dụng để áp dụng tiền lệ pháp. Tòa án sẽ so sánh chứng cứ trong vụ việc đang giải quyết với chứng cứ của vụ việc đã được giải quyết trước đó. Nếu chứng cứ của hai vụ việc tương tự nhau thì quan điểm trong quyết định giải quyết vụ việc trước đó sẽ được áp dụng. Nếu chứng cứ của hai vụ việc khác nhau, tòa án sẽ không áp dụng quan điểm trong quyết định giải quyết vụ việc trước đó. Bước thứ tư, đây là bước tòa án ra kết luận. Nếu dựa vào hiệu lực áp dụng, quan điểm của tòa án được chia thành holding và dictum. “Holding” là phần lập luận của tòa án có tính bắt buộc áp dụng cho các vụ việc tương tự về sau. Như vậy, các nguyên tắc và học thuyết pháp lý được tìm thấy trong phần “holding”. Nếu dựa vào số lượng biểu quyết thì quan điểm của tòa án được chia thành 1. Quan điểm nhất trí unanimous opinion đạt được khi tất cả các thẩm phán đồng ý với quan điểm. 2. Quan điểm đa số majority opinion là khi đa số các thẩm phán đồng ý với quan điểm được đưa ra. 3. Quan điểm đồng ý concurring opinion là quan điểm của một thẩm phán mặc dù đồng ý với quyết định của đa số nhưng có lập luận khác. 4. Quan điểm khác dissenting opinion là quan điểm của một hoặc một số thẩm phán không đồng ý với quan điểm của đa số thẩm phán. Trong tương lai, quan điểm khác có thể được sử dụng làm cơ sở cho lập luận để bãi bỏ một án lệ. Ngoài ra, tòa án có thể đưa ra quan điểm mà không thể hiện rõ cá nhân thẩm phán đưa ra quan điểm, quan điểm này được gọi là per curiam opinion. Không phải tất cả các bản án, quyết định của tòa án phá án tòa án phúc thẩm và tòa án tối cao sẽ trở thành án lệ. Chỉ các bản án, quyết định được công bố reported opinions mới được sử dụng như án lệ. Các bản án, quyết định không được công bố unreported opinions, unpublished opinions là các bản án, quyết định không có giá trị khuôn mẫu để làm tiền lệ. “Quan điểm không được công bố là các quan điểm của tòa án không có hiệu lực áp dụng bắt buộc cho các vụ việc về sau non-binding precedential effect. Chúng là các phán quyết bằng văn bản cho các vụ việc cụ thể, được soạn ra cho riêng các bên liên quan, và chúng được ban hành với mục đích không tạo ra hiệu lực áp dụng bắt buộc cho các vụ việc về sau, chúng cũng không được áp dụng với giá trị thuyết phục cho các vụ việc trong tương lai. Nội dung của các quan điểm này thường hẹp, trích dẫn các chứng cứ của việc ở mức tối thiểu, và ít có những phân tích về pháp luật. Các quan điểm này thường không được soạn thảo một cách trau chuốt và cẩn thận như các quan điểm được công bố chính thức.”[1] Tòa án bang Maryland cũng khẳng định rõ “Các quan điểm được đăng tải trên trang này không được công bố unreported. Quan điểm không được công bố không được sử dụng để trích dẫn trong bất kỳ văn bản, bản lập luận, bản đề nghị hoặc bất kỳ văn bản nào nộp cho tòa án, hoặc bất kỳ tòa án nào của bang Maryland sử dụng quan điểm này như là tiền lệ pháp theo nguyên tắc stare decicis hoặc như là quan điểm có giá trị thuyết phục. Qui chế 1-104 của Maryland”[2] Các bản án, quyết định của tòa án bang thuộc trường hợp được công bố được chính thức công bố trên hệ thống công bố quốc gia National Reporter System được công bố bởi West Group. Hệ thống công bố quốc gia được chia thành các báo cáo khu vực regional reporters, mỗi khu vực sẽ công bố bản án, quyết định của các bang được phân bổ cho đơn vị đó. Nguồn công bố bản án, quyết định của tòa án bang – Hệ thống công bố quốc gia[3] Báo cáo khu vực Thời điểm bắt đầu Phạm vi Atlantic Reporter A. hoặc 1885 Connecticut, Delaware, District of Comlumbia, Maine, Maryland, New Hamphshire, New Jersey, Pennsylvania, Rhode Island, và Vermont North Eastern Reporter hoặc 1885 Illinois, Indinia, Massachusetts, New York, và Ohio North Western Reporter hoặc 1879 Iowa, Michigan, Minnesota, Nerbraska, North Dakota, South Dakota và Wisconsin Pacific Reporter P., hoặc 1883 Alaska, Arizona, California, Colorado, Hawaii, Idaho, Kansas, Montana, Nevada, New Mexico, Oklahoma, Oregon, Utah, Washington và Wyoming South Estern Reporter hoặc 1887 Georgia, North Carolina, South Carolina, Virginia và Western Virginia South Western Reporter hoặc 1886 Arkasas, Kentucky, Missouri, Tennessee và Mississipi Southern Reporter So., So. 2d, hoặc So. 3d 1887 Alabama, Florida, Louisiana Các bản án, quyết định của Tòa án tối cao liên bang Hoa Kỳ được công bố trên báo cáo của Hoa Kỳ United States Reports Quyết định của tòa án sơ thẩm liên bang được công bố không chính thức trên West’s Federal Supplement hoặc còn bản án, quyết định của án phúc thẩm khu vực được công bố không chính thức trên West’s Federal Reporter F., hoặc [1] Eriscas. Weisgerber, Unpublished Opinions A Convenient Means to an Unconstitutional End, the Georgetown Law Journal [Vol. 97 621 2009], p. 623 [2] [3] Thông tin trong bảng này được lấy từ Kenneth W. Clarkson, Roger LeRoy Miller and Frank B. Cross 2011, Business Law Text and Cases – Legal, Ethical, Global, and Corporate Environment, twelfth edition, Cengage Learning, p. 17 [4] Kenneth W. Clarkson, Roger LeRoy Miller and Frank B. Cross 2011, Business Law Text and Cases – Legal, Ethical, Global, and Corporate Environment, twelfth edition, Cengage Learning, p. 17 Ít có cuộc bầu cử nào trên thế giới lại được chú ý và tốn giấy mực như cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ. Từ các ứng cử viên, cơ chế bầu cử đại cử tri đoàn, quá trình bỏ phiếu gay cấn ở các tiểu bang… luôn giúp cho người ta hào hứng theo dõi cuộc tranh đua chức danh nhà nước quyền lực nhất thế nhiên, cũng giống như hầu hết các vấn đề quản trị nhà nước khác của Hoa Kỳ, khó có thể hoàn thiện bức tranh toàn cảnh của cuộc bầu cử mà không nói về những lần các bên liên quan phải “đáo tụng đình”.Là một quốc gia có truyền thống tư pháp mạnh mẽ, nơi mà hầu hết các tranh chấp công dân – công dân; hay công dân – nhà nước, đều được giải quyết bằng phán quyết của tòa, các tranh chấp về bầu cử tổng thống cũng nổ ra khá thường xuyên, và đều được dàn xếp thông qua các quyết định tư đây là ba án lệ quan trọng Luật Khoa muốn giới thiệu với bạn đọc, có thể giúp chúng ta hiểu rõ thêm về vai trò của tư pháp và văn hóa pháp lý Hoa v. Gore 2000 Tiếng nói cuối cùngTrong gần hai thập kỷ trở lại đây, các luật gia nghiên cứu về Hoa Kỳ buộc phải nhắc đến vụ án Bush v. Gore. Dù không hẳn tạo ra các nguyên tắc pháp lý tiền lệ đặc biệt quan trọng cho tiến trình bầu cử, phán quyết một mặt chứng minh tầm ảnh hưởng bao trùm của Tối cao Pháp viện lên mọi vấn đề chính trị quốc gia, một mặt thể hiện sự trân trọng của tất cả các nhóm xã hội đối với Tối cao Pháp viện với tư cách là người quyết định cuối cùng trong cuộc chạy đua vào Nhà trắng đầy tranh cãi hồi năm hoàn cảnh thời điểm đó, cuộc bầu cử tổng thống ở tiểu bang Florida để lại nhiều ngàn phiếu gây tranh cãi ở các quận như Miami-Dade và Palm Beach, có khả năng quyết định lại toàn bộ 25 phiếu Đại cử tri của Florida, vốn đã được tuyên bố là thuộc về ứng cử viên của Đảng Cộng hòa, George W. Bush. Cụ thể hơn, số phiếu này được máy đếm ra là các phiếu trắng, tức không ghi nhận bầu cho các luật sư bảo vệ quyền lợi cho ứng cử viên còn lại của Đảng Dân chủ, đương kiêm phó tổng thống Albert Gore, đây là những phiếu bầu hợp pháp và chỉ không đếm được bởi những hạn chế thiết kế của hệ thống đếm phiếu thẻ bằng máy. Theo họ, số lượng phiếu này cần phải được đếm lại, bằng tay không. Tối cao Pháp viện tiểu bang Florida đồng tình với lập luận của phía Albert ông Bush, đương nhiên, không có lý do gì phải chấp nhận một rủi ro đáng giá 25 phiếu đại cử tri, khẳng định rằng chúng đều là những phiếu không có giá trị về mặt pháp lý. Do đó, việc đếm lại là không cần ứng cử viên G. W. Bush và Al Gore tranh luận trên truyền hình năm 2000. Ảnh Boston hỏi mà đội ngũ luật sư của ông Bush đặt ra cho Tối cao Pháp viện cũng vô cùng khéo léo“Việc Tối cao Pháp viện tiểu bang Florida đặt ra các quy tắc bầu cử mới ý chỉ luật tiểu bang và liên bang không có quy định đếm phiếu bằng tay – ND có vi phạm Hiến pháp Hoa Kỳ hay không? vàViệc đếm phiếu không quy chuẩn bằng tay có vi phạm các điều khoản về bảo vệ bình đẳng equal protection và chuẩn mực pháp lý due process hay không?”Như vậy, thay vì để câu hỏi ở trạng thái nguyên vẹn là “có nên kiểm phiếu bằng tay hay không?”, nay Pháp viện phải xem xét liệu việc cho kiểm phiếu bằng tay có phải là đang đặt ra các quy tắc pháp lý bầu cử mới hay không? Một góc nhìn hoàn toàn khác biệt, hợp lý, và có lợi hơn cho ông cao Pháp viện Hoa Kỳ nghiêng về các lập luận của đội ngũ luật sư của Bush, với 7/9 thẩm phán cho rằng Pháp viện tiểu bang Florida đã vi hiến, và 5/9 thẩm phán cho rằng đếm phiếu bằng tay mà không có quy chuẩn luật định vi phạm các nguyên tắc Equal Protection và Due đếm phiếu lại do đó đã không thể diễn phán quyết này, ông Bush có đủ 25 phiếu đại cử tri của bang này, và cuối cùng là tổng cộng 271 phiếu đại cử tri toàn quốc, dư đúng một phiếu để có thể trở thành tổng thống Hoa trọng hơn cả, theo Thẩm phán Stephen G. Breyer, dù ông không đồng tình với kết quả cuối cùng, phản ứng của các đảng phái cũng như dân chúng đối với phán quyết thể hiện sự tôn trọng rất lớn của người dân dành cho tòa và hệ thống tư pháp quốc gia. Đó là những gì tốt đẹp về nền pháp quyền và văn hóa pháp lý Hoa v. Allwright 1944 Quyền bỏ phiếu nội bộ đảng“Chế độ nô lệ sẽ không thật sự chấm dứt cho đến khi người da đen có quyền bỏ phiếu”.Đây là tuyên bố nổi tiếng của Frederick Douglass vào tháng Năm năm 1865, sau khi chính phủ Liên hiệp miền Bắc đạt được chiến thắng quyết định tại Appomattox trong cuộc Nội chiến 1861 – ngại của Frederick Douglass về tàn dư của chế độ nô lệ không thừa. Quá trình Tái thiết Reconstruction Hoa Kỳ sau cuộc nội chiến tại miền Nam được vận hành chủ yếu bởi chính những người da trắng thua trận, vốn vẫn còn một niềm tin mãnh liệt vào chế độ nô lệ và sự thấp kém của người Mỹ gốc vào nửa cuối thế kỷ 19, đã có nhiều dân biểu, thượng nghị sĩ gốc Phi được bầu vào Quốc hội Hoa Kỳ, sự phân biệt đối xử ngầm dành cho người da đen vẫn tồn tại suốt nhiều thập trong số đó, phải kể đến việc Đảng Dân chủ thời điểm này vẫn còn là chính đảng đại diện cho sự phân biệt – định kiến không cho phép cử tri da đen tham gia vào các kỳ bầu cử sơ bộ bên trong nội bộ đảng. Căn cứ pháp lý là các đạo luật riêng rẽ ở từng tiểu bang, ghi nhận rằng các chính đảng có quyền tự thiết lập nguyên tắc bầu bán riêng của mình trong các cuộc bầu cử nội vậy, dù quyền bầu cử trên toàn quốc dành cho người Mỹ gốc Phi đã được công nhận và thi hành trên thực tế, họ vẫn có khả năng bị loại ra khỏi quá trình đóng góp tiếng nói trong việc quyết định ứng viên bên trong từng đảng. Nói cách khác, anh có quyền đi bầu trong các cuộc tổng tuyển cử; nhưng việc chọn ra ứng cử viên là ai thì anh không có quyền tham tri da đen đòi quyền bỏ phiếu ở Mỹ. Ảnh đến năm 1923, Lonnie E. Smith, một cử tri da đen thuộc quận Harris, Texas, khởi kiện đảng bộ Đảng Dân chủ tiểu bang Texas vì quy định rằng chỉ có các công dân da trắng mới được bỏ phiếu cho kỳ bầu cử sơ bộ trong nội bộ đảng trả lời câu hỏi hành vi loại trừ quyền bầu cử của công dân dựa trên màu da, sắc tộc của các tổ chức chính trị, tổ chức tư nhân có vi phạm Hiến pháp Hoa Kỳ hay không, Tối cao Pháp viện lập luận“Hoa Kỳ là một nền dân chủ lập hiến. Từng tế bào của hệ thống pháp luật chúng ta bảo đảm cho mọi công dân quyền được tham gia vào quá trình lựa chọn các chức vụ công quyền mà không gặp bất kỳ cản trở nào vì màu da của họ. Nếu chính quyền tiểu bang có thể đơn giản tước bỏ quyền công dân quan trọng này bằng cách trao lại thẩm quyền cho một tổ chức tư nhân nhằm thực hiện hành vi phân biệt chủng tộc ngay cả trước khi cuộc bầu cử chính thức diễn ra, các quyền hiến định sẽ không còn bao nhiêu ý nghĩa nữa”.Không chỉ vậy, Pháp viện còn nhấn mạnh vai trò của các chính đảng trong việc lựa chọn ra ứng viên để được tham gia vào cuộc tổng tuyển cử toàn quốc hay toàn tiểu bang không còn đơn thuần là một tổ chức tư nhân, mà là đang thực hiện chức năng nối dài của chính quyết chính thức xóa bỏ hệ thống bầu cử nội bộ phân biệt đối xử của các chính đảng, mà cụ thể ở đây là Đảng Dân chủ, từ đó khởi nguồn cho các biến chuyển, cải cách mạnh mẽ diễn ra bên trong từng đảng cho đến ngày v. Valeo 1976 Kiện cơ quan lập pháp vì pháp luật kiểm soát tài chính bầu cửDưới nhiều góc độ, Buckey v Valeo là một trong những án lệ dài nhất trong lịch sử xét xử của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ, với nhiều kết luận tư pháp cuối cùng được đưa ra nhất. Đây là bản án định hình nên cách thức mà chính phủ liên bang lẫn tiểu bang Hoa Kỳ hiện nay đang tiếp cận với tiêu chuẩn minh bạch và kiểm soát đóng góp tài chính cho hoạt động tranh cử của các ứng cử bối cảnh lịch sử, lưỡng viện Hoa Kỳ quyết định đặt ra các định mức đóng góp tài chính cá nhân và nhiều quy định pháp luật khác cho hoạt động tranh cử sau vụ bê bối Watergate lịch sử đầu thập niên 1970. Một số đạo luật như Đạo luật Vận động Tranh cử Liên bang Federal Election Campaign Act 1971 cùng những điều khoản cũ trong Bộ luật Thuế Internal Revenue Code 1954, được ban hành hoặc sử dụng nhằm ngăn chặn khả năng chi phối các chính trị gia, nguy cơ tham nhũng và tính liêm chính của các cuộc bầu cử liên chú ý có thể kể đến việc đặt giới hạn đóng góp tài chính của từng cá nhân cho một chương trình vận động tranh cử, hay đặt ra nghĩa vụ báo cáo tài chính cho các tổ chức nếu khoản đóng góp của họ cho chương trình tranh cử vượt quá một con số do luật xác theo đó, Ủy ban Bầu cử Liên bang Federal Election Commission – FEC cũng được thành lập để đảm bảo việc vận hành những yêu cầu kiểm soát ngặt nghèo mới về vấn đề tài chính vừa nhìn qua, đây đều là những quy định rất cần thiết để bảo vệ sự công bằng, minh bạch và liêm chính của một cuộc bầu cử, người Mỹ không đơn giản chấp nhận nó mà không có một cuộc đấu pháp lý sòng Buckley phải trong đêm bầu cử ở New York, 3/11/1970. Ảnh National vụ án, James L. Buckley – nguyên đơn – là người thuộc đảng Bảo thủ Conservative Party, một đảng nhỏ buộc phải phản đối các giới hạn tài chính vì nó làm giảm năng lực cạnh tranh của đảng này với các đảng phái lâu đời như Cộng hòa hay Dân chủ. Bị đơn, Francis R. Valeo, là Thư ký và đại diện cho Thượng viện Hoa Kỳ trước hơn ba tháng tranh luận và cân nhắc, Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ đưa ra hàng loạt các kết luận và lý giải đi kèm, với 7/9 phiếu đồng thuận từ các thẩm phán. Phán quyết có thể được tạm rút gọn những điểm quan trọng như sauĐối với giới hạn đóng góp tài chính của từng cá nhân dành cho một ứng cử viên, một cuộc vận động tranh cử nhất định, tổng chi của cá nhân cho tất cả các cuộc tranh cử trong một năm tài chính, cùng theo đó là các yêu cầu về tiết lộ và minh bạch thông tin người đóng góp, Pháp viện cho rằng đây là những công cụ pháp lý cần thiết nhằm chống lại thực trạng các ứng cử viên của các chức danh nhà nước quan trọng có thể bị lệ thuộc vào các mạnh thường quân giới hạn và biện pháp đặt ra, theo Pháp viện, vừa bảo vệ được lợi ích của một nhà nước chính trực, minh bạch, song cũng không làm ảnh hưởng quá nhiều đến quyền tự do biểu đạt của công lại, đối với việc đặt ra giới hạn chi tiêu tranh cử của các ứng viên, đặt ra trần được phép sử dụng từ các nguồn quỹ thuộc sở hữu chính ứng viên đó, gia đình ứng viên hay của toàn bộ chiến dịch tranh cử… tạo nên hạn chế trực tiếp, xâm phạm lên quyền tự do biểu đạt được ghi nhận trong Tu chính án thứ Nhất. Tương tự như vậy, một cá nhân độc lập chi tiền để quảng bá cho hình ảnh và thông điệp chính trị của một ứng cử viên cũng được xem là hình thức ngôn luận được bảo hạn chế này sẽ giới hạn năng lực của ứng viên, công dân và các tổ chức xã hội có thể tham gia vào các hoạt động được bảo vệ như biểu đạt và tuyên truyền các thông điệp chính trị bằng các buổi mít-tinh, gặp mặt, đại nhạc hội, quảng cáo và các hoạt động công cộng cách khác, theo các thẩm phán, chi tiền trong tranh cử đồng nghĩa với việc thực hiện quyền nói của mình. Hạn chế việc chi tiền đồng nghĩa với việc hạn chế quyền tự do ngôn luận về mặt định lượng quantity.Cuối cùng, cùng với các kết luận khác, Tối cao Pháp viện cũng đồng thời khẳng định thẩm quyền bổ nhiệm các chức danh của Ủy ban Bầu cử Liên bang được trao trực tiếp cho các thành viên Nghị viên là vi phạm nguyên tắc tam quyền phân lập mà Hoa Kỳ theo đuổi từ thời kỳ lập cả các chức danh trong nhóm Nhân viên Liên bang Hoa Kỳ “Officers of the United States” cần phải do Tổng thống Hoa Kỳ đề cử và bổ nhiệm, với ý kiến và sự chuẩn thuận từ Thượng viện. Đây là nội dung nằm trong tiểu mục b, mục của phần 2 Án lệ trong hệ thống pháp luật Anh và Mỹ trong Chương I của đề tài SV NCKH năm 2007 Án lệ và Khả năng áp dụng Án lệ ở Việt Nam. Phần trước Lịch sử án lệ ở Mỹ Phần này do bạn cùng làm với tôi viết Án lệ có vị trí và vai trò rất quan trọng trong hệ thống pháp luật Anh, Mỹ và là nguồn không thể thiếu trong pháp luật Anh, Mỹ. Khi nghiên cứu về hệ thống pháp luật của Anh và Mỹ có thể thấy việc áp dụng và giải thích án lệ ở Anh và Mỹ có những điểm tương đồng và khác biệt Điểm tương đồng – Ở cả hai nước án lệ đều là nguồn chủ yếu của pháp luật. – Án lệ được tạo ra từ các phán quyết của các thẩm phán toà án cấp trên. Điểm khác biệt Mặc dù chịu ảnh hưởng của pháp luật Anh nhưng án lệ của Anh và Mỹ cũng có những điểm tương đồng và khác biệt cơ bản Có thể bạn quan tâm [Ebook] Tài liệu nghiên cứu Án lệ Anh Mỹ Sự hình thành án lệ – Được tạo ra từ các phán quyết của toà án cấp trên – Toà án bang. – Toà án liên bang. – Toà án tối cao Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Vai trò – Pháp luật thành văn có vị trí cao hơn án lệ nhưng thẩm phán Anh thường cố gắng tìm cách để áp dụng án lệ nhằm hạn chế tối đa sự áp dụng luật thành văn. – Luật thành văn có vị trí cao nhất đặc biệt là hiến pháp Hoa Kỳ. Tất cả các văn bản luật và án lệ nếu trái với Hiến pháp để sẽ bị tuyên bố là vi hiến. Cách thức áp dụng – Án lệ ở Anh được các thẩm phán áp dụng một cách cứng nhắc. – Án lệ đươc các thẩm phán áp dụng một cách mềm dẻo, linh hoạt hơn. Nguyên tắc áp dụng – Rule of stare decicis tất cả các tòa án dều phải tuân theo án lệ trừ Ủy ban phúc thẩm Thượng nghị viện. – Rule of precedent tất cả các tòa án đều có quyền thay đổi án lệ. Sự ghi chép – Tại Anh các án lệ bắt buộc thường được ghi chép trong Law Reports, All England Law Reports, Weekly Law Reports. – Tại Mỹ tập hợp các án lệ được in trong tuyển tập Trình bày về pháp luật Restatement of the Law của một hiệp hội tư nhân có tên là Viện luật Hoa Kỳ American Law Institute. Nguyên nhân của sự khác nhau giữa án lệ của Anh và Mỹ Mặc dù hệ thống pháp luật Anh và Mỹ có sự phát triển tương tự nhau, đặc biệt trong một thời gian pháp luật Mỹ chịu ảnh hưởng, tiếp thu pháp luật Anh. Nhưng cần khẳng định rằng pháp luật Anh và Mỹ tồn tại một cách độc lập vì mỗi nước đều có chủ quyền riêng của mình và hoàn cảnh kinh tế xã hội khác nhau làm cho án lệ Mỹ có những nét đặc thù cơ bản so với án lệ ở Anh, mà nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự khác nhau đó là Anh Mỹ Lãnh thổ – Anh là một đảo quốc ở Châu Âu, có lãnh thổ thống nhất trong cả nước với hệ thống pháp luật chung. – Mỹ là một lục địa rộng lớn giành được độc lập từ phát triển đấu tranh giải phóng thuộc địa. Lãnh thổ nước Mỹ được chia làm 50 bang, với 50 hệ thống pháp luật khác nhau. Lịch sử – Nước Anh có truyền thống bề dày lịch sử, là một đế chế hùng mạnh với diện tích thuộc địa rộng lớn trên khắp thế giới từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất. – Mỹ trước kia là thuộc địa của Anh giành độc lập năm 1776 với thành phần gồm những người nhập cư với nhiều chủng tộc lập nên Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Hình thức chính thể – Anh là một nước quân chủ nghị viện, vẫn phụ thuộc chế độ quân chủ có nữ hoàng và nhà vua nhưng chỉ là biểu tượng của nước Anh, còn quyền lực thực chất nằm trong tay nghị viện đứng đầu là Thủ tướng. – Mỹ là nước cộng hoà tổng thống với hai đảng Dân chủ và Cộng hoà thay nhau cầm quyền. Chế độ chính trị – Anh là một quốc gia đơn nhất. – Mỹ là một quốc gia liên bang, mỗi bang đều có pháp luật riêng của mình nhưng chịu sự chi phối của toà án liên bang nên trong đó luôn có sự dung hoà về lợi ích giữa các bang. Điều kiện kinh tế xã hội – Anh đã từng đứng đầu thế giới về diện tích thuộc địa và là một quốc gia có tiềm lực về kinh tế. – Sau chiến tranh thế giới II Mỹ dần vươn lên và đứng đầu thế giới về cơ cấu nền kinh tế. Những nguyên nhân trên làm cho án lệ ở Anh và Mỹ có những nét riêng, đặc thù dẫn đến hệ quả về mặt pháp lý cách giải quyết vấn đề của người Mỹ rất khác so với người Anh. Pháp luật của Anh chủ yếu gây ảnh hưởng đối với pháp luật Mỹ ở những lĩnh vực tạm gọi la “luật tư” còn với những lĩnh vực khác như luật hình sự, tố tụng hình sự, thương mại… ảnh hưởng của pháp luật Anh đối với pháp luật Mỹ là khá lu mờ. Do đó một số luật gia Mỹ có thể dễ dàng tiếp cận pháp luật Anh cũng như một số án lệ Anh vẫn được dẫn chiếu để giải quyết một số vụ việc ở Mỹ. Ngược lại luật gia Anh sẽ gặp khó khăn khi tiếp cận pháp luật Mỹ.10 Chú thích 10Xem Tập bài giảng luật so sánh, đd, tr. 8; Nguyễn Linh Giang, đd, tr. 7; Nguyễn Đức Mai, đd, tr 8; Lưu Tiến Dũng, Vai trò của án lệ ở các nước theo hệ thống pháp luật án lệ Common Law và các nước theo hệ thống dân luật Civil Law, Tạp chí Toà án nhân dân, Số 1, 2006. Phần tiếp theo Nguyên tắc chung áp dụng án lệ

án lệ hoa kỳ